THƠ TỐ HỮU

Giới thiệu: Tập thơ Từ ấy (1937- 1946) là chặng đường đầu mười năm thơ của Tố Hữu. Tập thơ gồm ba phần: Máu lửa, Xiềng xích và Giải phóng tương ứng với ba chặng đường trong mười năm đầu hoạt động của người thanh niên cách mạng Tố Hữu. Nội dung chủ yếu là thể hiện cái tôi trữ tình của nhà thơ, yêu thương những con người lao khổ, khơi dậy ở họ tinh thần đấu tranh và tin tưởng ở tương lai; thể hiện tinh thần đấu tranh bất khuất của người chiến sĩ cộng sản; là tiếng reo vui khi đất nước được giải phóng. Dù còn những hạn chế nhưng vẫn thể hiện được giọng điệu thiết tha, sôi nổi, chân thành và tràn đầy chất lãng mạn. 

Ý XUÂN

Xuân bước nhẹ trên nhành non lá mới
Bạn đời ơi, vui chút với trời hồng!
Hết lạnh rồi, gió bắc với mưa đông
Đây nắng tới với chim ca lanh lảnh
Thì vui chút cho hồn thêm nhựa mạnh
Gân thêm săn và máu hận thêm nồng!
Đời lạt mùi và đau đớn bất công
Là để việc cho đời xuân sức khoẻ
Kiêu hãnh chút, bạn đời ơi, tuổi trẻ
Say tương lai là tuổi của anh hùng!
Đứng lên đi, xây dựng cuộc đời chung
Nắm tay sắt quyết đồng tâm lật đổ
Cả chế độ hung tàn gây thống khổ
Và tị hiềm, và gian dối điêu vong!
Đứng lên đi, hởi tuổi trẻ xung phong
Sóng cách mạng đang gầm rung thế giới!

Xuân bước nhẹ trên nhành non lá mới
Bạn đời ơi, vui lắm, cả trời hồng!
(Xuân 1939)

ĐỜI THƠ

(Tặng Lung)

Một đêm nữa, rồi thôi ra ngục tối
Mà lòng anh sao vẫn nặng trăm chiều
Ngoài song giăng, trăng sáng biết bao nhiêu
Mà anh thấy trời đen như vực thẳm!
Mừng lo đó, cuốn trăm vòng rối rắm
Hết tù nhưng đời vẫn lắm xiềng gông!
Ừ mai đây, chân lại sẽ thong dong
Thân rảnh nhẹ không vướng còng xích nữa
Anh lại sẽ trở về đeo kiếp thợ
Sống hôm nay chẳng biết có ngày mai
Hai bàn tay, ấy đó cả gia tài!
Anh lại sẽ lần hồi đi bán dạo
Bao tuỷ máu, mua ngày hai bữa gạo
Với quanh năm, đôi bộ áo quần xanh.
Thế rồi sao, còn vợ với con anh ?
Trong mí mắt, cảnh gia đình hiện tới
Anh lại thấy ổ nhà tranh rách rưới
Ngoài ngoại ô, rác bẩn như chuồng heo
Nằm soi lưng lở lói dưới ao bèo.
Đây là góc buồng xưa trong bóng tối
Có tiếng khóc nghe sao buồn nhức nhối
Một đứa con ghẻ mụn bám đen ruồi
Đang chao mình tấp tểnh đẩy tao nôi
Để ru ngủ một thằng em quặn đói.
Mẹ chúng nó còn lang thang bước mỏi
Ngoài đường xa phố sáng bán chè rao
Đó con anh và đó vợ năm nào
Xưa đã khổ mà nay càng thêm khổ!
Chừ anh lại để nơi đau đớn cũ
Hết tù nhưng rồi biết tính sao đây ?

Cứ đeo theo mà chắp nối dòng ngày
Chỉ trôi tới một vũng lầy biết trước
Rồi sẽ chết, ôi vô duyên vô phước
Ngựa khô hơi quỵ gối bên đường trường!
Chừ sao đây! Về ấp lại tình thương
Để lưng vợ tạm nương ngày tháng lạnh
Con đỡ đói tới khi vừa mạnh cánh
Khỏi dầm sương dãi nắng kiếp lang thang ?
Chừ sao đây! Kéo cờ trắng đầu hàng
Hay chuyển sức trăm cân đầu búa sắt
Gạt phăng hết những tình duyên nhỏ nhặt
Để tay ghì riết chặt khối đời to ?

Chết con ta ? Nhưng sống vạn đời thơ
Ừ chúng cũng là con ta đó cả.
Vợ ta chết ? Nhưng sống muôn em ả
Nhà ta tan ? Nhưng sống vạn gia đình.
Không, phải hy sinh, phải nhất thiết hy sinh
Lòng vô sản phải mang tình nhân loại
Chí đã quyết ra đi là tiến mãi!

Ngoài song giăng, đêm đã biến từ nào
Có con nhồng đâu đó hót trên cao
Mây ửng đỏ ở ven trời xa rộng…
(Xà lim Quy Nhơn, tháng 10-1941)

ĐÊM GIAO THỪA

Đêm nay pháo nổ giao thừa
Mà người chiến sĩ không nhà còn đi
Truông dài, bãi rộng, đồng khuya
Người đi như chẳng nhớ gì tết xuân
Người đi quên hết gian truân
Say mê như một dân quân trên đường
Xóm làng phảng phất quê hương
Nước non man mác tình thương mặn nồng
Song trong mưa gió lạnh lùng
Tái tê chân cũng ngại ngù bước gieo
Nép lưng vào miếu tranh nghèo
Nao nao lòng lại mơ theo cờ hồng.
(Xuân 1943)

ĐÔNG

Đêm nay gió biển đông về
Mùa thu chừng đã tái tê đất trời
Non quanh chừng đã lạnh rồi
Rừng sâu run rẩy, xa vời tiếng rung

Sân lao mấy cội vông đồng
Lá cành xao xác, buồn đông não nề
Một mình nằm tựa đêm nghe
Lạnh lùng gió lọt vào khe cửa buồng

Mền không mà chiếu cũng không
Một mình trơ trọi giữa phòng xà linh
Nằm nghe mình chuyện với mình
Mênh mông nhớ bạn, gởi tình trăm phương…
(Lao Bảo, tháng 12-1940)

ĐÔNG KINH NHUỘM MÁU

(Tặng những người đàn bà Nhật chết trên đường sắt Đông Kinh)

Nhật hoàng! Nhật hoàng!
Trên ngai vàng chễm chệ
Uất hận của Phù Tang
Đã vang cùng sóng bể!

Trong lầu son lộng lẫy
Phe phẩy quạt ngà xinh
Nghe không ngươi huyết chảy
Trên đường sắt Đông Kinh ?

Nghe không ngươi lời van
Từ đáy lòng tha thiết:
- Thôi bàn tay hung tàn
Bắt chồng con ta chết

Biết bao nhiêu quả phụ
Nhăn trán nhìn va-gông
Bao nhiêu nàng ủ rũ
Run rẩy đứng trông chồng!

Bỗng lay động ngàn binh
Còi tàu vang tiếng thét
Và đoàn xe rùng mình
Sắp lăn vào cõi chết

Và khối người kinh hãi
Xúc động bởi tình thương
Như một đoàn hổ dại
Cùng tuôn đổ ra đường

Tung cao mulôn bàn tay
Những bàn tay rối loan:
- Hỡi thiên tử cao dày
Vì chúng tôi cứu nạn!

Lần thứ hai còi thét
- Mặc! chúng tôi nằm đây!
Hỡi Thiên hoàng soi xét
Chiến địa đã tràn thây!

Còi lại thét. Không thôi
Vẫn nhường lời nức nở:
- Trả chồng con chúng tôi
Hỡi Thiên hoàng muôn thuở!

Thiên hoàng trong cung điện
Lạnh ngắt, nghe gì đâu ?
Và đoàn xe cứ nghiến
Tan nát những xương đầu.

Nhật hoàng! Nhật hoàng!
Trên ngai vàng chễm chệ
Uất hận của Phù Tang
Đã vang cùng sóng bể!
Huế, tháng 5-1938

ĐI

(Tặng bạn trẻ)

Đi, bạn ơi, đi! Biệt tháng ngày
Hoang mang không định hướng tương lai
Buồn thiu như dưới chiều quê lặng
Dải nước mương lê xuống vũng lầy.

Đi, bạn ơi, đi! Sống đủ đầy
Sống trào sinh lực, bốc men say
Sống tung sóng gió thanh cao mới
Sống mạnh, dù trong một phút giây.

Đi, bạn ơi, đi! Cả cuộc đời
Của ta nào chỉ của ta thôi!
Đã vay dòng máu thơm thiên cổ
Phải trả ta cho mạch giống nòi!

Trả hết, không quyền tiếc mảy may
Trả ngay không hề khất rày mai
Nước non rên xiết trong xiềng xích
Đã giục ta ra giữa chiến đài!

Và vạn anh hùng trên gió mây
Và nghìn thế hệ tới sau đây
Đương nhìn ta đó! Đi đi bạn
Cất nhẹ thân lên giữa phút này

Nỗ lực bình sinh diệt địch cừu
Chúng ta nào phải lũ phiêu lưu
Tùng bừa sinh ạng lên đùa bỡn
Với gió mây như đứa thả diều.

Ta đã đi, là ta quyết đi!
Đạp bằng trở lực, vượt gian nguy
Ngực còn thoi thóp, tim còn đập
Còn nghiến răng giương thẳng nghĩa kỳ!
(1944)

ĐI ĐI EM

Rứa là hết! Chiều ni em đi mãi
Còn mong chi ngày trở lại Phước ơi!
Quên làm sao, em hỡi, lúc chia phôi
Bởi khác cảnh, hai đứa mình nghẹn nói.

Em len lét, cúi đầu, tay xách gói
Áo quần dơ, cắp chiếc nón le te
Vẫn chưa thôi, lời day dứt nặng nề
Hàng dây tiếng rủa nguyền trên miệng chủ!

Biết không em, nỗi lòng anh khi đó ?
Nó tơi bời đau đớn lắm em ơi!
Bàn chân em còn luyến tiếc không rời
Nơi em đã cùng anh vui phút chốc.

Những đêm tối, anh viết bài em học
Cho em quên bớt nỗi nhọc ban ngày
Nơi bao nhiêu âu yếm tuổi thơ ngây
Anh đã trút cho lòng em tất cả!

Em ngoái cổ nhìn anh ta chỉ trả
Thầm cho nhau đôi mắt ướt ly sầu!
Biết làm sao, em hỡi, nói cùng nhau ?
Tiếng chưởi mắng vẫn phun hoài, nhục nhã!

Thì em hỡi! Đi đi, đừng tiếc nữa!
Ngại ngùng chi ? Nấn ná chỉ thêm phiền!
Đi đi em, can đảm bước chân lên
Ừ đói khổ đâu phải là tội lỗi!

Anh mới hiểu: càng ngậm ngùi khổ tủi
Càng dày thêm uất hận của lòng ta
Nuôi đi em, cho đến lớn, đến già
Mầm hận ấy trong lồng xương ống máu

Để thêm nóng mai kia hồn chiến đấu
Mà hôm nay anh đã nhóm trong lòng!
(Huế, 2-1938)

BA TIẾNG

Nghĩa đời trong ba tiếng:
Máy điện giục gầm gù
Chuông đạo hát vô tư
Kiểng tù khua gắt gỏng
Mỗi tiếng riêng một giọng
Mỗi giọng riêng một lời.

Máy bảo: “Đổ mồ hôi
Hay dầu sôi nước mắt
Rã rời tay cũng mặc
Mi phải suốt đời mi
Làm nữa, phải làm đi
Không một giây ngừng nghỉ”.
Chuông khuyên, lời uỷ mị:
“Con, nhận khổ đời con
Để nhẹ thoát linh hồn
Thiên đàng trong nhẫn nhục
Oán thù là địa ngục.
Cười vui theo gió quên”.

Và kiểng doạ: “Nằm yên
Phải cúi đầu khuất phục
Đây thành lao cửa ngục
Đây xiềng xích, gông cùm
Đây mũi sũng, làn gươm
Chết, nếu mi đòi sống”.

Kiểng tù khua gắt gỏng
Máy điện giục gầm gừ
Chuông đạo hát vô tư:
Nghĩa đời trong ba tiếng.
(Xà lim Quy Nhơn, tháng 8-1941)

BÀ MÁ HẬU GIANG

Trời Hậu Giang, tù và dậy rúc
Phèng la kêu, trống giục vang đồng
Đường quê đỏ rực cờ hồng
Giáo lê sáng đất, tầm vông nhọn trời
Quyết một trận, quét đời nô lệ
Quăng máu xương, phá bẻ xiềng gông!

Hỡi ôi! Việc chửa thành công
Hôm nay máu chảy đỏ đồng Hậu Giang
Giặc lùng, giặc đốt xóm làng
Xác xơ cây cỏ, tan hoang cửa nhà
Một vùng trắng bãi tha ma
Lặng im, không một tiếng gà gáy trưa
Có ai biết, ai ngờ trong đó
Còn chơ vơ một ổ lều con
Đạn bom qua, hãy sống còn
Núp sau lưng rộng một hòn đá to.
Có ai biết trong tro còn lửa
Một má già lần lữa không đi
Ở đây sóng gió bất kỳ
Má ơi, má ở làm chi một mình ?
Rừng một dải U Minh tối sớm
Má lom khom đi lượm củi khô
Ngày đêm củi chất bên lò
Ai hay má cất củi khô làm gì?
Hay má lẫn quên vì tuổi tác
Hay má liều một thác cho yên ?

Bỗng đâu một buổi mai lên
Trên đường quê ấy qua miền nghĩa quân
Một tán quỷ rần rần rộ rộ
Mắt mèo hoang, mũi chó, râu dê
Súng trường nhọn hoắt lưỡi lê
Khét nồng khí chết, tanh dề máu oan!
Chúng rảo bước. Lính quan nện gót
Mắt nhìn quanh lục mót dạng người
Đồng không, lạnh vắng, im hơi
Chỉ đôi bóng quạ ngang trời loáng qua
Ách là! Thằng quan ba dừng bước
Rút ống dòm, và ngước mắt nheo
Xa xa, sau lớp nhà xiêu
Một tia khói nhỏ ngoằn ngoèo bay lên…

Hắn khoái trá cười điên sằng sặc
Nhe hàm răng sáng quắc như gươm
Vẫy tay lũ tớ gườm gườm
Như bầy chó đói chực chồm miếng ăn.
Rồi lặng lặng bước chân hùm sói
Tiến dần lên tia khói, vây quanh…

Má già trong túp lều tranh
Ngồi bên bếp lửa, đun cành củi khô
Một mình má, một nồi to
Cơm vừa chín tới, vùi tro, má cười…

Chết! Có tiếng gì rơi sột soạt ?
Má già run, trán toát mồ hôi
Chạy đâu ? Thôi chết, chết rồi!
Gót giày đâu đã đạp rơi liếp mành.
Một thằng cướp, mắt xanh mũi lõ
Đốc gươm dài tuốt vỏ cầm tay
Rung rinh bậc cửa tre gầy
Nghênh ngang một ống chân đầy lối đi!

Hắn rướn cổ, giương mi, trơn mắt
Như hổ mang chợt bắt được mồi
Trừng trừng trông ngược trông xuôi
Trông vào bếp lửa: Một nồi cơm to.
Hắn rống hét: “Con bò cái chết!
Một mình mày ăn hết này sao ?
Đừng hòng che được mắt tao
Khai mau, du kích ra vào nơi đâu ?
Khai mau, tao chém mất đầu!”
Má già lẩy bẩy như tàu chuối khô
Má ngã xuống bên lò bếp đỏ
Thằng giặc kia đứng ngõ trừng trừng
Má già nhắm mắt, rưng rưng
“Các con ơi! ở trong rừng U Minh
Má có chết, một mình má chết
Cho các con trừ hết quân Tây!”
Thằng kia bỗng giậm gót giày
Đạp lên đầu má: “Mẹ mày, nói không?”
Lưỡi gươm lạnh toát kề hông
“Các con ơi! Má quyết không khai nào!”
Sức đâu như ngọn sóng trào
Má già đứng dậy, ngó vào thằng Tây
Má hét lớn: “Tụi bay đồ chó!
Cướp nước tao, cắt cổ dân tao!
Tao già không sức cầm dao
Giết bay, có các con tao trăm vùng!
Con tao, gan dạ anh hùng
Như rừng đước mạnh, như rừng chàm thơm!
Thân tao chết, dạ chẳng sờn!”
Thương ôi! Lời má lưỡi gươm cắt rồi!
Một dòng máu đỏ lên trời
Má ơi, con đã nghe lời má kêu!
Nước non muôn quỷ ngàn yêu
Còn in bóng má sớm chiều Hậu Giang.
(Đầu năm 1941)

CHIỀU

Lão ngồi bên cửa sổ
Trong nắng nhạt chiều thu
Còng lưng đan chiếc rổ
Mai bán lấy vài xu.

Bàn tay khô lẩy bẩy
Kéo mũi lạt tre vàng
Theo điệu buồn run rẩy
Trên làn môi khô khan

Cho tới khi chiều tắt
Đôi ngọn lá vàng rơi
Vô tình qua trước mắt
Lão buông lạt trông trời

Từ lâu như thế mãi
Vẫn không nói không cười
Lão ngồi đan chậm rãi
Hy vọng của ngày mai…
(Huế tháng 10-1938)

CON CÁ CHỘT NƯA

Năm sáu ngày mệt xỉu
Thuốc làm khuây mấy điếu
Vài ba hớp nước trong
Suy nghĩ chuyện bao đồng
Vẫn không ngoài chuyện đói.
Đầu sân, canh bốc khói
Chén cá nức mùi thơm
Lên họa với mùi cơm
Sao mà như cám dỗ!
Muốn ngủ mà không ngủ
Cái bụng cứ nằn nì:
“Ăn đi thôi, ăn đi”
Chết làm chi cho khổ!”
Nghe hắn thầm quyến rũ
Tôi đỏ mặt bừng tai:
“Im đi cái giọng mày
Tao thà cam chịu chết!”
Hắn nằm im đỡ mệt
Rồi tha thiết van lơn:
“Đời mới hai mươi xuân
Chết làm chi cho khổ!”
Hắn nói to nói nhỏ
Kể lể chuyện đê hèn
Tôi vẫn cứ nằm yên
Hắn liền thay chiến thuật:
“Thôi thì thôi: cứ vật
Nhưng phải ráng cầm hơi
Theo với bạn với đời
Cho đến ngày kết qủa.
Ăn đi vài con cá
Năm bảy cái chột nưa
Có ai biết ai ngờ?
Thế vẫn tròn danh dự
Không can chi mà sợ
Có hôi miệng hôi mồm
Còn có nước khi hôm
Uống vô là sạch hết!”
Lần này tôi thú thiệt:
Lời hắn cũng hay hay
Lý sự cũng đủ đầy
Nghe ra chừng phải quá!
Ăn đi vài con cá
Năm bảy cái chột nưa
Có ai biết, ai ngờ
Thế vẫn tròn danh dự
Nhưng mà tôi lưỡng lự
Suy nghĩ rồi lắc đầu
Đành không ai biết đâu
Vẫn không làm thế được!
Từ khi chân dấn bước
Trên con đường đấu tranh
Tôi sẵn có trong mình
Đôi mắt thần: chủ nghĩa.
Đã đứng trong đoàn thể
Bềnh vực lợi quyền chung
Sống chết có nhau cùng
Không được xa hàng ngũ
Không thể gì quyến rũ
Mua bán được lương tâm
Danh dự của riêng thân
Là của chung đồng chí
Phải giữ gìn tỉ mỉ
Như tròng mắt con ngươi
Đến cạn máu tàn hơi
Không xa rời kỉ luật
Phải trải lòng chân thật
Không một nét quanh co
Không một bóng lờ mờ
Không một nhăn ám muội!
Bụng nghe chừng biết tội
Từ đó hết nằn nì
Không dám thở than chi
Và tôi cười đắc thắng.

CON CHIM CỦA TÔI

Nó chết rồi, con chim của tôi
Con chim sẻ sẻ mới ra đời
Hôm qua nó hãy còn bay nhảy
Chỉ một ngày giam, đã chết rồi!

Tôi muốn cô đơn dịu bớt sầu
Nên tôi yêu nó có gì đâu!
Tình thương vô ý gây nên tội
Tôi đã tù, sao bắt nó tù ?

Sao nỡ dù trong giây phút thôi
Bắt con chim nhỏ hận câm lời
Sao không trả nó về mây gió
Cho nó say sưa uống ánh trời ?

Tôi dẫu dành cơm mớm nó ăn
Đủ làm sao được: thiếu không gian!
Sao tôi không hiểu, sao không hiểu ?
Để tội tình chưa, nó chết oan!
(Xà lim số 1, lao Thừa Thiên | tháng 5-1939 )

DẬY MÀ ĐI

Dậy mà đi! Dậy mà đi!
Đừng tiếc nữa, can chi mà tiếc mãi ?
Ai chiến thắng mà không hề chiến bại
Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần ?
Huống đường đi còn lắm bước gian truân
Đây chưa phải trận sau cùng chiến đấu!
Thì đứng dậy, xoa tay và tự bảo:
Chỉ còn đây sức lực hãy còn đây!
Lòng không nghèo tin tưởng ở tương lai
Chân có ngã thì đứng lên, lại bước.
Thua ván này, ta đem bầy ván khác,
Có can chi, miễn được cuộc sau cùng
Dậy mà đi, hy vọng sẽ thành công
Rút kinh nghiệm ở bao lần thất bại:
Một lần ngã là một lần bớt dại
Để thêm khôn một chút nữa trong người.
Dậy mà đi, hỡi bạn dân nghèo ơi!
(Tháng 5-1941)

DỬNG DƯNG

Du khách bảo đây vườn kín đáo
Với hương dìu dịu, ý ngàn xưa
Thời mây xanh nhạt màu hư ảo
Đây xứ mơ màng, đay xứ thơ…

Cô gái thẫn thờ vê áo mỏng,
Nghiêng nghiêng vành nón dáng chờ ai
Ven bờ sông phẳng con đò mộng
Lả lướt đì về trong gió mai…

Thành quách trăm năm sầm mặt lạnh
Ngọn cờ uể oải vật vờ lay
Lâu đài đường bệ màu kiêu hãnh
Áo gấm hài nhung cánh phượng bay.

Ta nện gót trên đường phố Huế
Dửng dưng không một cảm tình chi
Không gian sặc sụa mùi ô uế
Mà nước dòng Hương mãi cuốn đi…

Ý chết đã phơi vàng héo úa
Mùa thu lá sắp rụng trên đường
Mơ chi ảo mộng ngàn xưa nữa ?
Cây hết thời xanh đến tiết vàng!

Ai tưởng ngàn năm nương đất ấy
Mầm non thêm nhựa, lá thêm tươi
Ôi mỉa mai hồn ta chỉ thấy
Rêu hèn sống gửi nhánh khô thôi.

Ai tưởng thiên đường sao nhấp nhánh
Tài hoa tinh kết, ngọc long lanh
Ta chỉ thấy nơi đây mồ lạnh
Chôn linh hồn đắm đuối hư danh.
(Huế, tháng 5-1938)

GIỜ QUYẾT ĐỊNH

Không thể nữa, lưng chừng hay tính toán
Trọn đời ta rút gọn ở giờ này.
Bão đã rốc thổi già trên biển loạn
Sống là đây mà chết cũng là đây

Không thể nữa, lơi chèo hay quay lái
Đằng sau kia còn bãi cát nào đâu ?
Chỉ ghê gớm núi chồm trên sóng dại
Chực quăng ta vào mỏm đá nhô đầu

Không thể nữa cầu xin êm gió nước:
Gió vô tri và nước cũng điên cuồng
Phật vẫn lặng như ngàn năm thủa trước
Và Trời hay Thiên chúa chỉ hư không

Không thể nữa, không bao giờ được nữa!
Đoàn ghe ta chỉ sống ở trăm tay
Bão cố xé cho đoàn ta tan rã
Thì mau lên, riết chặt mối ngàn dây!

Xích sát lại, cập kề nhau vững chắc
Dầu sóng tung hay gió quật thâm người
Da rét, mặc! Tả tơi quần áo, mặc
Phải gắng lên: mỗi đứa chúng mình ơi!

Tay bình tĩnh cứ ghìm ôm vững lái
Còn bao nhiêu cứ cắm cổ bơi chèo
Không một tiếng thở dài buông rã rợi
Không một lời để chán nản thầm gieo!

Dầu phải chết một phần ta, cứ chết!
Không kêu ca, không tiếc hối, than phiền.
Quyết không để cả đoàn tan nát hết.
Bạn thuyền ơi! Nỗ lực bơi chèo lên!
(Tháng 4-1940)

HAI ĐỨA TRẺ

Tôi không dám mời anh đi xa lạ
Tìm đau thương trong xã hội điêu tàn
Kể làm sao cho hết cảnh lầm than
Lúc trái ngược đã tràn đầy tất cả!

Này đây anh một bức tranh gần gũi:
Nó thô sơ? Có lẽ. Nhưng trung thành.
Nó tầm thường? Nhưng chính bởi hồn anh
Chê chán kẻ bị đời vui hắt hủi.

Hai đứa bé cùng chung nhà một tuổi
Cùng ngây thơ, khờ dại, như chim con
Bụi đời dơ chưa vẩn đục hồn non
Cùng trinh tiết như hai tờ giấy mới.

Ồ lạ chửa! Đứa xinh tròn mũm mĩm
Cười trong chăn và nũng nịu nhìn me.
Đứa ngoài sân, trong cát bẩn bò lê
Ghèn nhầy nhụa, ruồi bu trên môi tím!

Đứa chồm chập vồ ôm li sữa trắng
Rồi cau mày: “Nhạt lắm! Em không ăn!”.
Đứa ôm đầu, trước cổng đứng treo chân
Chờ mẹ nó mua về cho củ sắn!

Đứa ngây ngất trong phòng xanh mát rượi
Đây ngựa nga, đây lính thổi kèn Tây.
Đứa kia thèm, giương mắt đứng nhìn ngây
Không dám tới, e đòn roi, tiếng chưởi!

Vẫn chưa hết những cảnh đời đau khổ
Nhưng kể làm chi nữa, bạn lòng ơi!
Hai đứa kia như sống dưới hai trời
Chỉ khác bởi không cùng chung một tổ:

Đứa vui sướng là đứa con nhà chủ
Và đứa buồn, con mụ ở làm thuê.
(Huế, tháng 10-1937)

HỒ CHÍ MINH

Hồ Chí Minh
Người lính già
Đã quyết chiến hy sinh
Cho Việt Nam độc lập
Cho thế giới hoà bình!
Người đã sống nǎm mươi nǎm vũ bão
Vì nhân loại
Người quyết dâng xương máu
Vì giang sơn
Người quyết dứt gia đình!

Hồ Chí Minh
Người đã quyết
Mặc phong ba giá tuyết
Mặc gươm súng xiềng gông
Làm tên quân cảm tử đi tiên phong

Đánh trăm trận, thề trăm phen quyết thắng!
Bao thất bại dẫu xát lòng cay đắng
Hồn vẫn tươi vui, thơm ngát tình đời
Bước trường chinh dầu mỏi gối khan hơi
Tim gang thép vẫn bừng bừng lửa chiến
Cờ đã phất, phải gương cao quyết tiến! Người xông lên
Và cả đoàn quân, thừa huyết khí thanh niên
Rập bước tiến bên người Cha anh dũng.
Tiếng Người thét
Mau lên gươm lắp súng!
Và cả đoàn quân
Đã bao nhiêu nǎm tháng trải phong trần
Mắt sáng quắc tay xanh loè mã tấu
Vụt ào lên quyết hy sinh chiến đấu
Diệt cường quyền!
Ôi sức mạnh vô biên!
Hồ Chí Minh
Hỡi ngọn đuốc thiêng liêng
Trên đầu ta, ngọn cờ dân tộc
Trǎm thế kỷ trong tên Người: Ái Quốc
Bạn muôn đời của thế giới đau thương!
Chúng tôi đây
Lớp con cháu trên đường
Gươm tuốt vỏ, súng cầm tay, xốc tới
Ngọn cờ đỏ sao vàng bay phấp phới
Nước non Hồng vang dội Tiến quân ca

Hồ Chí Minh
Người trẻ mãi không già!
(26-8-1945)

HI VỌNG

Liên Xô nở trước đời tôi ba tuổi
Hai mươi xuân gội nhựa ướt đầu xanh
Có bao nhiêu đem khởi cuộc hành trình
Tôi chất cả vào rương còn lưng lẻo
Ồ vui quá! Rộn ràng trên vạn nẻo
Bốn phương trời và sau dấu muôn chân
Cũng như tôi, tất cả tuổi đương xuân
Chen bước nhẹ trong gió đầy ánh sáng
Tay hái sắc giầu như trăm móng ráng
Đường thơm tho như mật bộng trưa hè
Không gian hồng như giấc mộng đê mê
Tim bồng bột hát những lời âu yếm…

Anh, bước lại cùng tôi, ta sẽ nếm
Bên đường đây, đôi ba trái ngọt hiền
Vui ăn đi! Có lẽ một bà tiên
Đã để đó cho những hồn thanh khiết
Khoan khoái chút như trong ba bữa tết
Rồi đứng lên, ta lại bước vang đường
Toả đầy nơi hơi mát của muôn sương
Và của gió nhịp tưng bừng linh hoạt!
Cứ như thế, cho tối ngày giải thoát
Cả loài ta. Và khi đó. Tự nhiên
Sẽ trố nhìn, ngơ ngác, lớp thanh niên
Xây thế giới cao quá trời xa thẳm.
(1-8-1938)

HUẾ THÁNG TÁM

Huế trầm mặc hôm nay sao khác khác
Những mắt huyền ngơ ngác hỏi thầm nhau
Chân nôn nao như khách đợi mong tàu
Bước dò bước, không biết sau hay trước?
Tim hồi hộp, vì sao? Ai hen ước;
Ai đang về? Dáng đó thấp hay cao?
Mắt sáng ngời, như lửa hay như sao?
Người hay mộng? Ngoài vào hay trong tới?
Giáng từ trên hay là vươn từ dưới?
Huế xôn xao lo lắng, những đêm mơ
Khát khao hoài, như cô gái mong chờ
Sau cửa hé, người yêu chưa biết mặt…
Trên hương giang mênh mang đò lạnh ngắt
Tiếng đàn im Ca kỹ nép phương nào?
Trăng thì thầm chi với sóng lao xao…
Đức Kim Thượng đêm nay trong ngọc điện
Ngự lên lầu, trông lên cao xao xuyến
Muôn vì sao… Lạnh lẽo thấm hoàng bào
Người rùng mình, tưởng đứng đỉnh cù lao
Nổi cô độc giữa gió triều biến động,
Đôi gốc đại nghiêng nghiêng tàn lay bóng
Sầu thâm cung vờ vật dưới chân chầu
Người đứng đây. Trăm họ đang về đâu?
Đình thần đó, rầu rầu thân lá trắng
Quá khứ nặng đè xuống đầu cúi lặng…
Một gai vàng không thể thắng cả giang sơn!
Lòng muôn dân rần rật lửa căm hờn
Máu giải phóng đã sôi dòng nhân loại!
Người phải xuống, đến nay, đêm chiến bại
Để toàn dân chiến thắng giữ ngôi son!
Người phải lui, cho Dân tiến, Nước còn
Dân là chủ, không làm nô lệ nữa!
Hãy mở mắt: Quanh hoàng cung biển lửa
Đã dâng lên, ngập Huế đỏ cờ sao
Mở mắt trông: Trời đất bốn phương chào
Một dân tộc đã ào ào đúng dậy!

Chừ đây Huế, Huế ơi! Xiềng gông xưa đã gãy
Hãy bay lên! Sông núi của ta rồi!
Nước mắt ta trào, búp mí, tràn môi
Cổ ta ré trăm trận cười, trận khóc!
Ta ôm nhau, hôn nhau từng mái tóc
Hả hê chưa, ai bịt được mồm ta?
Ta hét huyên thiên, ta chạy khắp nhà
Ai dám cấm ta say, say thần thánh?
Ngực lép bốn nghìn năm, trưa nay cơn gió mạnh
Thổi phồng lên. Tim bỗng hóa mặt trời
Có con chim nào trong tóc nhảy nhót hót chơi
Ha! Nó hót cái gì vui vui nghe thiệt ngộ
Gió gió ơi! hãy làm giông làm tố
Cuốn tung lên cờ đỏ máu thơm tơi
Vàng vàng bay, đẹp quá, sao sao ơi
Ta ngã vật trong dòng người vuộn thác
Ôi thiên đường! Tai miên man lắng nhạc
Từ muôn phương theo gót nện rầm rầm
Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam muôn năm!
(1945)

KHI CON TU HÚ

Khi con tu hú gọi bầy,
Lúa chiêm đang chín trái cây ngọt dần,
Vườn ươm dậy tiếng ve ngân,
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào,
Trời xanh càng rộng càng cao,
Đôi con tu hú lộn nhào từng không…

Ta nghe hè dậy bên lòng,
Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi.
Ngột làm sao, chết uất thôi,
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu.

LAO BẢO

Đèo cao vút vươn mình trong lau xám
Đá uy nghiêm trầm mặc dưới trời tro
Gió nói gì với rừng sâu u ám
Đường sao run, tê tái cả hồn thơ!

Xe dừng lại! Tường ai xây tháp núi ?
Một thành trì đổ nát những ngày xưa
Của một giống dân vùi trong máu bụi
Nay điêu tàn, khối đá đứng chơ vơ ?

Vũng nước đọng ven bờ hoen sắc gạch
Đàn muỗi rừng huyên náo vù vù bay
Chao hiu quạnh! Trên vùng khô đỏ chạch
Không vết chân, không một dấu đường cày.

Là Lao Bảo, chốn này đây, Lao Bảo
Tên đun sôi sùng sục tuỷ xương tàn
Là nơi đây, nấm mồ bao khối não
Là nơi đây, huyết ứ dưới lời than!

Là nơi đây, pháp trường thân chiến sĩ
Nát bầm da quằn quại là nơi đây
Roi đế quốc, báng súng trường quất xé
Thịt hy sinh của những kiếp đi đầy!

Nhắm mí mắt: chờn vờn trong đêm tối
Nhánh xương khô khua rợn cả lòng tôi
Tim không khóc, nhưng sôi lên, dữ dội
Sóng máu hờn nào uất khí tanh hôi.

Hỡi chiến sĩ rữa tan trong mả loạn
Hãy về đây trong đáy giếng hồn tôi!
Hãy về đây những ảnh hình ly tán
Nấu sôi niềm oán hận của muôn đời

Cho tôi hưởng tinh thần hăng chiến đấu
Cho da tôi dày dạn với ngày mai
Cho tôi hiến đến cuối cùng suối máu
Để nhuộm hồng bao cảnh xám bi ai !
(6-1938)

LÃO ĐẦY TỚ

Lão trương hai bàn tay
Nhìn tôi và trắng trợn:
“Tôi không hay đùa bỡn,
Làm việc quá trâu cày

Đến già, còn bửa củi
Gánh nước, cuốc vườn cau
Đất bụi lấm đầy đầu
Mà chủ còn hất hủi!

Như cái kiếp ăn mày
Ngồi ăn trang góc xó
Buồn thiu như con chó
Áo rách chẳng ai may

Quần rách giơ tuốt cả!
Lạnh thì nằm chòng queo
Trơ trụi như con mèo
Không có vài tấm rạ!”

Tôi riết chặt bàn tay
Của lão: “Bao nhiêu nỗi
Đau buồn và tức tối
Sẽ tan biến ngày mai…

Ông đã nghe ai nói
Có một xứ mênh mông
Nửa tây và nửa đông
Mạnh giầu riêng một cõi ?

Nơi không vua, không quan
Không hạng người ô uế
Không hạng người nô lệ
Sống đau xót, lầm than.

Nơi tiêu diệt lòng tham
Không riêng ai của cải
Hàng triệu người thân ái
Cùng chung sức nhau làm

Để cùng nhau vui sướng
Ai già nua tật nguyền
Thì cứ việc ngồi yên
Đã sẵn tiền nuôi dưỡng”.

Lão ngơ ngác nhìn tôi
Rối rít: “Ồ hay nhỉ!
Ai già nua được nghỉ
Cũng no ấm trọn đời ?

Ai cũng có nhà cửa
Cũng sung sướng bằng nhau ?
Đã không ai đè đầu
Làm chi có đầy tớ ?

Cậu bảo: Cũng không xa ?
- Nước Nga ?
- Ờ nước ấy”.
Và há mồm khoan khoái
Lão ngồi mơ nước Nga…
(Tháng 6-1938)

MỒ CÔI

Con chim non rũ cánh
Đi tìm tổ bơ vơ
Quanh nẻo rừng hiu quạnh
Lướt mướt dưới dòng mưa.

Con chim non chiu chít
Lá động khóc tràn trề
Chao ôi buồn da diết
Chim ơi biết đâu về.

Gió lùa mưa rơi rơi
Trên nẻo đường sương lạnh
Đi về đâu em ơi
Phơi thân tàn cô quạnh!

Em sưởi trong bàn tay
Cho lòng băng giá ấm
Lìa cành lá bay bay
Như mảnh đời u thảm!

Con chim non không tổ
Trẻ mồ côi không nhà
Hai đứa cùng đau khổ
Cùng vất vưởng bê tha

Rồi ngày kia rã cánh
Rụi chết bên đường đi…
Thờ ơ con mắt lạnh
Nhìn chúng: “Có hề chi!”.
(Huế, tháng 10-1937)

MỘT TIẾNG RAO ĐÊM

Ai ăn bánh bột lọc không ?
Tiếng rao sao mà ướt lạnh tê lòng!
Không phải giọng của một hầu đứng tuổi
Cao thánh thót hay rồ khan gió bụi
Đây âm thanh của một cổ non tơ
Mà giây ngân còn vương vẫn dại khờ
Trên môi mỏng hãy thơm mùi sữa mẹ.
Tiếng rao nhỏ của một em gái bé
Không vang lâu, chỉ vừa đủ rao mời
Mà giọng còn non quá, yếu dần hơi
Nên cái bánh nửa chừng ra cái bén
Thôi cũng được, tiếng em vừa ngon đến
Rao đi em, kẻo nữa quá khuya rồi…
Anh nằm nghe qua cửa khám, xa xôi
Tiếng em bước trên đường đêm nho nhỏ
Nhưng cũng đủ cho lòng anh lắng rõ.
Anh thấy em, mình gió thổi nghiêng nghiêng
Như cây dương liễu nhỏ tóc chưa viền
Manh áo mỏng che không kín ngực
Đầu không nón, bụi sương thầm chấm ướt
Đuôi tóc chuôi chừng bảy tám năm thôi!
Ấy chân em leo lên bước đường đời
Ngày tháng đó trong mủng vài chục bánh.
Gia tài đó, mấy đồng xu mỏng manh,
Biết bao giờ mà sướng được em ơi!
Có ai thương một em bé giữa trời
Mà thương nữa cũng đôi người lơ đễnh
Kêu em lại, mua cho vài chiếc bánh
Trả vài xu và thoa má, ngọt ngào
“Ồ cái con bé nó mới ngoan sao
Chừng ấy tuổi đã làm ăn bán dạo!”

Và con bé đi rồi, tình mới đậu
Chưa nồng trên lòng khách, đã phôi pha
Theo dáng hình sương khuất, tiếng rao xa…
(Xà lim Quy Nhơn, tháng 11-1941)

NHỚ ĐỒNG

(Tặng Vịnh)

Gì sâu bằng những trưa thương nhơ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò

Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi
Đâu ruồng che mát thở yên vui
Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn
Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi ?

Đâu những đường con bước vạn đời
Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi
Giữa dòng ngày tháng âm u đó
Không đổi, nhưng mà trôi cứ trôi…

Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh
Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!

Đâu những lưng cong xuống luống cày
Mà bùn hy vọng nức hương ngây
Và đâu hết những bàn tay ấy
Vãi giống tung trời những sớm mai ?
Đâu những chiều sương phủ bãi đồng
Lúa mền xao xác ở ven sông
Vẵng lên trong tiếng xe lùa nước
Một giọng hò đưa hố não nùng

Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!

Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi
Sao mà cách biệt, quá xa xôi
Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ
Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!

Đâu những hồn thân tự thuở xưa
Những hồn quen dãi gió dầm mưa
Những hồn chất phác hiền như đất
Khoai sắn tình quê rất thiệt thà!

Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi
Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời
Vơ vẫn theo mãi vòng quanh quẩn
Muốnn thoát, than ôi, bước chẳng rời

Rối một hôm nào, tôi thấy tôi
Nhẹ nhàng như con chim cà lơi
Say đồng hương vui ca hát
Trên chín tầng cao bát ngát trời…

Cho tới chừ đây, tới chừ đây
Tôi mơ qua cửa khám bao ngày
Tôi thu tất cả trong thầm lặng
Như cánh chim buồn nhớ gió mây.

Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh
Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!
(Tháng 7-1939)

NHỚ NGƯỜI

Khi con hổ thênh thang trong rú rậm
Say hương cây bỗng mắc cạn giăng thầm
Nằm dài lưng trong cũi sắt trăm năm
Nó có nhớ buôn chăng: xa bóng núi ?
Cũng như nó, sa chân vào ngục tối
Sao mà ta tha thiết nhớ rừng nguờ!
Nhớ bạn đời trai trẻ dậy xuân tươi
Trong nét rắn của thân hình vạm vỡ
Nhớ những mắt thơ ngây nhìn bỡ ngỡ
Dưới hàng mi mở rộng chân trời hồng…

Nhớ những lời mong ước toả lên không:
Ôi đẹp đẽ, những linh hồn hăm hở
Săn đón bạn không cần chi mặc cả
Nhọc bao nhiêu và giá bạn bao nhiêu
Miễn thêm đông, thiệt mấy cũng lời nhiều
Ôi ngạo mạn là lòng người tuổi trẻ!
Tiêu hoang thế vẫn dồi dào sức khoẻ
Giàu đức tin nên vẫn thấy đời vui
Cả tương lai ngào ngạt vị thơm bùi,
Bước một bước, tưởng thêm gần thế giới
Của Bình đẳng, Tự do và Bác ái
Ồ những trái tim trong tựa thuỷ tinh
Giống nhau sao những gương mặt hiền lành

Ta nhớ lắm, hởi bạn đời yêu dấu
Con muôn thủa của tinh thần chiến đấu
Kiến trúc sư của xã hội ngày mai!
Cháy lòng ta nỗi nhớ, bạn đời ơi!
Chim trên mái kêu nhau về tổ ở
Chờ đây một mình ta sau cánh cửa
Đi vẫn vơ theo bốn vách xà lim
Ôi cô đơn thấm lạnh cả tâm tình
Nghe bên cạnh tiếng ngáp dài ngao ngán…
(Lao Thừa Thiên, tháng 5-1939)

NHỮNG NGƯỜI KHÔNG CHẾT

(Kính tặng anh Nguyễn Chí Diển)

Anh với tôi giữa bốn tường vôi lạnh
Lặng nhìn nhau, lựa phải nói năng chi!
Anh nghe thu rứt lá gọi đời đi
Tôi thấy cả một mùa xuân bước lại.
Anh là một thuỷ thủ già vững tay lái
Tôi, bên anh là bạn mới cầm chèo
Gần nhau đây mà xa biết bao nhiêu
Giữa hai đứa mênh mông là biển rộng!

Thuyền anh đã bao lần theo ngọn sóng
Trôi điêu linh trên vực mặn không cùng
Cánh buồm xưa kiêu hãnh gạt cuồng phong
Nay tơi tả rủ dòng trên cột lỏng
Và mạn ván miên man theo nhịp sóng
Chiều hôm nay giông tố giạt vô bờ
Chiều hôm nay, trên bãi đá chơ vơ
Tôi đứng ngó thuyền anh trơ xác chết
Ôi trong đó biết bao ngày oanh liệt!

Chết hay không, nhân loại, những linh hồn
Đã từng đau khổ lắm, đã tiêu non
Tất cả máu củn một thời trai trẻ
Để đem lại cho Người ngày mới mè ?
Không! Không! Không! Anh không chết. Trong tôi
Ý đời anh đã nãy lộc đâm chồi
Trong cân não của một loài cơ cực
Anh đương sống với bao nhiêu sinh lực
Của thân cây đương buổi nhựa lên cành!

Kim nam châm đã hướng dẫn đời anh
Tôi sẵn có trong tay từ thuở ấy
Đường đi đó, nhổ sào lên tôi lái
Chiếc thuyền tôi vui lướt giữa muôn thuyền
Nào cần chi biển rộng dẫu bình yên
Hay ghê gớm nổi cồn cao sóng dữ
Tôi cứ lái cho tới ngày mệt lử
Một chiều kia, dù lại cũng như anh
Trở về đây trong mạn ván tan lành
Giữa lúc những thuyền kia lướt tới.
(Mùa thu 1938)

NHƯ NHỮNG CON TÀU

Khi ta đã say mùi hương chân lý
Đời đắng cay không một chút ngọt bùi
Đời đau buồn không một tiếng cười vui
Đời đen tối phải đi tìm ánh sáng

Ta bước tới. Chỉ một đường: Cách mạng
Vững lòng tin sẽ nắm chắc thành công
Như những con tàu giữa biển mênh mông
Còn xa đất, vẫn tin ngày cập bến.

Cũng có lẽ, hỡi bạn đời yêu mến
Bờ đương mờ, hải cảng vẫn còn xa
Có lẽ nhiều mỏm đá với phong ba
Sẽ đánh đắm một đôi tàu mỏng mang!

Đời tranh đấu có bao giờ yên tĩnh
Bạn đường ơi! Nhưng nếu chí bình sinh
Ta đem phơi trải với dạ chung tình
Với huyết khí của tinh thần mãnh liệt ?

Sự sống đã phát sinh từ cái chết
Thì gian nguy hiểm nạn có hề chi!
Ta hãy là đoàn chiến hạm ra đi
Hùng dũng tiến, đạp muôn đầu ngọn sóng
Tương lai đó, trước mặt ta, biển rộng
Trên đầu ta, lồng lộng gió trời cao!

Rồi mai đây, giữa một buổi xuân đào
Ta sẽ tới ru mình trong vịnh bạc.
(1938)

TỪ ẤY

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim…

Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.

Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ…
(7-1933)

TÂM TƯ TRONG TÙ

Cô đơn thay là cảnh thân tù!
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực
Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!
Đây âm u đôi ánh lạt ban chiều
Len nhè nhẹ qua rào ô cửa nhỏ
Đây lạnh lẽo bốn tường vôi khắc khổ
Đây sàn lim, manh ván ghép sầm u…

Cô đơn thay là cảnh thân tù!
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực
Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
Ở kia vui sướng biết bao nhiêu!
Nghe chim reo trong gió mạnh lên triều
Nghe vội vã tiếng dơi chiều đập cánh
Nghe lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh
Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi về…

Ôi! Hôm nay sao nhựa sống tràn trề
Trong những tiếng nghe chừng quen thuộc quá!
Nghe gió xối trên cành cây ngọn lá
Nghe mênh mang sức khoẻ của trăm loài
Tôi mơ hồ nghe tất cả bên ngoài
Đang ríu rít giữa một trời rộng rãi
Đang hút mật của đời sây hoa trái
Hương tự do thơm ngát cả ngàn ngày…
Ôi! Bao nhiêu ảo tưởng của hồn ngây
Tôi phút bỗng như quên đời thê thảm
Ở ngoài kia… biết bao thân tù hãm
Đọa đầy trong những hố thẳm không cùng
Tôi chiều nay giam cấm hận trong lòng
Chỉ là một giữa loài người đau khổ
Tôi chỉ một con chim bé nhỏ
Vứt trong lồng con giữa một lồng to
Chuyển đời quay theo tiếng gọi tự do
Tôi chỉ một giữa muôn người chiến đấu
Vẫn đứng thẳng trên đường đầy lửa máu
Chân kiêu căng không thoái bộ bao giờ!
Tôi, hôm nay, dầu xa tạm ngọn cờ
Hồn tranh đấu vẫn còn thôi thúc não!
Nơi đày ải là Đắc Pao, Lao Bảo
Là Côn Lôn thế giới của ưu phiền ?
Tôi sẽ cười như kẻ sẵn lòng tin
Giữ trinh bạch linh hồn trong bụi bẩn
Tôi chưa chết, nghĩa là chưa hết hận
Nghĩa là chưa hết nhục của muôn đời
Nghĩa là còn tranh đấu mãi không thôi
Còn trừ diệt cả một loài thú độc!

Có một tiếng còi xa trong gió rúc…
(Xà lim số 1, Lao Thừa Thiên, 29-4-1939)

TƯƠNG TRI

Anh không hỏi từ đâu
Em lạc loài trôi tới
Hỏi mà chi em hỡi
Càng thêm tủi lòng nhau!

Anh đã biết rằng em
Sống rày đây mai đó
Trong bụi đời sương gió
Bên xó chợ chân thềm.

Chiều hôm nay gió lạnh
Đẩy em tới buồng anh
Em ơi nghèo không bánh
Anh chỉ có chút tình…

Anh nhìn em không nói
Nhẹ nhẹ để bàn tay
Trên đầu non tóc rối
Rũ rợi xõa ngang mày.

Nhìn anh không chớp mắt
Em chẳng nói năng gì
Hai đứa con phiêu bạt
Bữa ni thành tương tri…
(Huế, 11-1937)

THÁP ĐỔ

Ai lẩn thẩn đem màu tươi hoa lá
Rắc trên cành khô chết nhựa trong cây ?
Ai khờ dại nhặt từng viên gạch rã
Băng bó sườn cổ tháp đã lung lay ?

Cây dù gượng xanh lại ngày xuân cũ
Tháp dù mong hàn lại vết phong sương
Mộng ảo tất! Gió lùa cây xiêu đổ
Tháp chênh vênh tan sập dưới chân tường

Thi sĩ hỡi! Đi tìm chi vơ vẩn
Trong hồn già đã chết những yêu mơ ?
Có lành đâu vết thương đầy oán hận
Có tan đâu khi uất tự bao giờ ?

Này hãy nghe cả lâu đài xã hội
Chuyển rung trong biển máu ngập tràn trề.
Này hãy nghe một thời đang hấp hối
Trong mồ đêm dĩ vãng sắp lui về.

Hãy cắt đứt những dây đàn ca hát
Những sắc tàn vị nhạt của ngày qua
Nâng đón lấy màu xanh hương bát ngát
Của ngày mai muôn thuở với muôn hoa (Tháng 3-1938)

TIẾNG CHUÔNG NHÀ THỜ

Mỗi buổi mai lên
Trên tường mái phố
Chuông nhà thờ đổ
Mỗi buổi hoàng hôn
Rủ xuống linh hồn
Chim hôm vê tổ
Chuông nhà thờ đổ…

Tiếng đồng ngân nga
Khoan thai bao la
Bình yên uỷ mị
Dịu dàng mang ý
Muôn lời ngọt thương…
Ai nằm trong sương
Bên đường phố lạnh
Áo tàn nửa cánh
Cơm thừa nửa mo

Ai dưới đồng khô
Buồn lo méo mặt.
Thuế sưu chồng chất
Nặng ách trâu cày
Ai hai bàn tay
Dầy chai lắm mỡ
Hỡi người bạn thợ
Đường đi bước cùng

Có lúc nào không
Nghe hồi chuông đổ
Mà lòng bớt khổ
Mà môi nở cười ?
Hay tiếng chuông rơi
Buông lời an ủi
Càng khua sầu tủi
Càng rung oán hờn!
(Xà lim Quy Nhơn, tháng 11-1941)

TIẾNG HÁT ĐI ĐÀY

(Tặng Huỳnh Ngọc Huệ)

Dường qua mấy phố Quy Nhơn
Nhà sao trông lại yêu hơn mọi lần
Người đi quấn áo chen thân
Ờ sao như đã quen thân từ nào?

Xe ơi chậm ngừng giây phút
Kẻo nữa rồi đây lại khát khao!

Nhưng nhà đã rải lơ thơ
Người đi mấy bóng vẩn vơ trên đường
Đồng xanh gợn nhớ quê hương
Bơ vơ tiếng hát bên nương nắng chiều

Xa rồi bóng dáng yêu thương cũ
Nhạt nhạt ngàn xa buồn cô liêu…

Đương lên xứ lạ Kông Tum
Quanh quanh đèo chật, trùng trùng núi cao
Thông reo bờ suối rì rào
Chi chiều chíu chít, ai nào kêu ai ?

Muốn gầm một tiếng tan u uất
Hận bỗng tuôn theo gió thổi dài

Đường lên Đắc Sút, Đắc Pao
Đèo leo ngọn thác, cầu treo mặt ghềnh
Đìu hiu mấy ải đồn canh
Lòng đau lại nhớ các anh những ngày…

Chao ôi, xưa cũng chốn này đây
Thân bạn vùi xương dưới gốc mây
Roi vụt nát tay bầy lính rợ
Máu đầm khoái mắt lũ đồn tây!
Mỗi hoàn đá đó bao hoàn huyết
Một khúc cầu đây, mấy khúc thây!
Hỡi những anh đầu qua trước đó
Biết chăng còn lắm bạn đi đày!
Đường lên đỉnh núi Đắc Lay
Heo heo gió lạnh, sương dày vắng chim
Gà đâu gáy động im lìm
Mơ mơ mấy xóm tranh chìm trong mây
Đồn xa héo hắt cờ bay
Hiu hiu phất lại buồn vây vây lòng

Có ai hiểu nổi hờn ghê gớm
Trên mắt người trông với núi sương
Núi hỡi! Từ đây băng xuống đó
Chừng bao nhiêu dặm, mấy đêm đường ?
(Tháng giêng 1942)

TIẾNG HÁT SÔNG HƯƠNG

Trên dòng Hương Giang
Em buông mái chèo
Trời trong veo
Nước trong veo
Em buông mái chèo
Trên dòng Hương Giang

Trăng lên trăng đứng trăng tàn
Đời em ôm chiếc thuyền nan xuôi dòng
Thuyền em rách nát
Mà em chưa chồng
Em đi với chiếc thuyền không
Khi mô vô bến rời dòng dâm ô!

Trời ôi, em biết khi mô
Thân em hết nhục giày vò năm canh
Tình ôi gian dối là tình
Thuyền em rách nát còn lành được không?

- Răng không, cô gái trên sông
Ngày mai cô sẽ từ trong ra ngoài
Thơm như hương nhụy hoa lài
Trong như nước suối ban mai giữa rừng.
Ngày mai gió mới ngàn phương
Sẽ đưa cô tới một vườn đầy xuân
Ngày mai trong nắng trắng ngần
Cô thôi sống kiếp đày thân giang hồ
Ngày mai bao lớp đời dơ
Sẽ tan như đám mây mờ đêm nay
Cô ơi tháng rộng ngày dài
Mỏ lòng ra đón ngày mai huy hoàng

Trên dòng Hương Giang…
(8-1938)

TIẾNG SÁO LY QUÊ

Ly Quê trên súng thần công
Xinh xinh như một tiên đồng Bồng lai
Trăng khuya len xuống rừng dài
Đường non thăm thẳm, đá gài lô nhô
Hồng quân mê mải sông hồ
Đêm nay tạm nghỉ bên bờ suối reo

Đêm nay như những chiều chiều
Đôi con chim đứng lưng đèo ngẩn ngơ
Ly Quê nâng ống tre tơ
Thổi bài Quốc tế dưới cờ Hồng quân
Hông quân bên suối xoa chân
Chân rơm rớm máu, Hồng quân không giầy !

Ra đi lừ ấy Giang Tây
Nước non vạn lý, đêm ngày trường chinh
Quản chi lên thác xuống ghềnh
Môi vầng cờ đỏ đinh ninh lời thề
Can trường trải với sơn khê
Bước đi đã hẹn ngày về thành công.

Sáo kêu vi vút trên không
Sáo kêu dìu dặt bên lòng Hồng quân
Sáo kêu réo rắt xa gần
Sáo kêu giục giã bước chân quân Hồng
Ly Quê trên súng thần công
Nghe con chim hót trong lồng tim xanh…
(1938)

TRĂNG TRỐI

Từ thuở ấy, quăng thân vào gió bụi
Đến hôm nay phút chết đã kề bên
Đến hôm nay kiệt sức, tôi nằm rên
Trên ván lạnh không mảnh mền, manh chiếu.
Đời cách mạng, từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày
Là gươm kề cận cổ, súng kề tai
Là thân sống chỉ coi còn một nửa
Bao khổ ấy, thôi cần chi nói nữa
Bạn đời ơi! Ta đã hiểu nhau rồi.

Nếu mai đây có chết một thân tôi
Hai mươi tuổi, tim đang dào dạt máu
Hai mươi tuổi, hồn quay trong gió bão
Gân đang săn và thớ thịt căng da
Đời mặn nồng hứa hẹn biết bao hoa!
Hai mươi tuổi mới qua vòng thơ bé
Dù phải chết, chết một đời trai trẻ
Liệm thân tàn bằng một mảnh chiếu con
Rồi chôn xương rục thối dưới chân cồn
Hay phơi xác cho một đàn quạ rỉa?
Tôi chẳng tiếc, chỉ cười trong mai mỉa
Bao nhiêu hình ảnh đó vẽ quanh tôi.

Tiếc làm chi? Thế cũng đã sống rồi.
Trường giông tố mấy năm trời vật lộn
Với cách mạng, tôi không hề đùa bỡn
Và không hề dám chối một nguy nan.
Dẫu bao nhiêu thành quả của thanh xuân
Tôi mới hái một đôi lần ít ỏi
Và bên bạn, chỉ là tên lính mới
Gót chân tơ chưa dày dạn phong trần
Tôi vẫn hằng tự nghĩ: “Miễn quên thân
Dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa
Thế cũng được, lựa chi nhiều tài trí
Mới là tên lính quý của đoàn quân ?
Và lòng vui, trí nhẹ đủ trăm phần
Tôi sẽ chết bình yên, không hối hận
Tôi sẽ chết như bao nhiêu số phận
Nẻo đường xa đã mạnh dấn chân vào
Đã từng lăn trong máu dưới gươm trào
Thân đã nặng bởi bao gông xiềng xích!
Tôi sẽ chết tuy chưa về đến đích
Nhưng cần chi, đã có bạn chung đời
Tung hoành trên mặt đất bốn phương trời
Trường giao chiến không một giờ phút lặng!
Rồi chiến thắng sẽ về ta, chiến thắng
Và tương lai, ta sẽ chiếm về ta!
Trường đấu tranh là một bản hùng ca
Ta sẽ chết trong điệu đàn tranh đấu.

Đây là tiếng, hỡi bạn đời yêu dấu
Của một người bạn nhỏ, trước khi đi
Đây là lời trăng trối để chia ly
Hãy đón nó, bạn đời ơi, đón nó!
Đường tranh đấu không một giờ thoái bộ
Sống đã vì cách mạng, anh em ta
Chết cũng vì cách mạng, chẳng phiền hà!
Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng
Lòng khoẻ nhẹ anh dân quê sung sướng
Ngửa mình trên liếp cỏ ngủ ngon lành
Và trong mơ thơm ngát lúa đồng xanh
Vui nhẹ đến trên môi cười hy vọng.
Lao Bảo, 11-1940
(Trong những ngày tuyệt thực)

VÚ EM

Nàng gửi con về nương xóm cũ
Nghẹn ngào trở lại đẩy xe nôi
Rồi từ hôm ấy, ôm con chủ
Trong cánh tay êm, luống ngậm ngùi

Nàng nhớ con nằm trong tổ lạnh
Không chăn, không nệm ấm, không màn
Biết đâu trong những giờ hiu quạnh
Nó gọi tên nàng tiếng đã khan!

Rồi từ hôm ấy, dưới đêm sâu
Hồi hộp nàng ra vịn cửa lầu
Nhìn xuống ven trời dày bóng nặng
Tim nghe trong gió tiếng con đâu

Gió vẫn vô tình lơ đãng bay
Những tàu cau yếu sẽ lung lay
Xạc xào động cánh đau lòng mẹ
Nghe tiếng lòng con vẳng tới đây!

Ta thấy nàng nghiêng mình rũ rượi
Gục đầu thổn thức trong bàn tay…
Biết chăng ai đó say chằn gối
Có kẻ đêm nay nước mắt đầy.
(Huế, tháng 5 – 1938)

XUÂN ĐẾN

Hôm nay xuân ốm dậy
Buồn như đông, nhợt nhạt, mưa phùn
Trên đường quê nhớp nháp đầy bùn
Đôi bóng xám nghiêng nghiêng trong gió rét.
Ôi xuân đó, những mắt viền bóng chết
Những manh buồm xơ xác phủ vai gầy
Những chân run bấm ngón trên đường lầy
Không biết định về đâu, nơi sống sót!
- Hỡi người bạn đã bao ngày đau xót
Lòng ưu tư giá lạnh như chiều nay
Hãy đưa tôi nắm chặt lấy bàn tay
Của bạn! Trong mưa phùn gió rét
Lòng sẽ ấm cùng nắm tay đoàn kết
Ta đi đi, tìm hạnh phúc từ đây!
Cùng những ai chán ngán cuộc đời này
Ta hớn hở riết bàn tay huynh đệ
Không gì mạnh bằng đoàn quân nô lệ
Mà hờn căm đã bốc lửa ran đầu.
Cả loài người đau khổ đã kêu nhau
Vùng đứng dậy, nghiến chặt răng chiến đấu!
Hỡi người bạn! Vui lên đi! Ất dậu
Sẽ là năm khởi nghĩa, năm thành công!
Trời bôm nay dầu xám ngắt màu đômg
Ai cản được mùa xuân xanh tươi sáng
Ai cản được những đoàn chim quyết thắng
Sắp về đây tắm nắng xuân hồng ?
(Xuân Ất Dậu 1945)

XUÂN LÒNG

Nắng xuân tưới trên thân dừa xanh dịu
Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh
Ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu
Và chảy tan qua kẽ lá vườn chanh.

Gió nhè nhẹ, hương cỏ cây nhè nhẹ
Thoảng bay lên, hương mạ dưới đồng xa
Tự đâu đó, hương muôn hoa mới hé
Như khói trầm từ đỉnh rộng bao la.

Hơi xuân ấm trả cho trời đất lặng
Tiếng reo ca nhí nhảnh và ngây thơ
Của đàn sáo say phơi mình dưới nắng
Chim nghệ vàng rỉa cánh trên nhành tơ…

Xuân trong sáng, xuân thơm, xuân ríu rít
Nhưng xuân đâu tươi đẹp, không xuân lòng ?
Ôi xuân nay chỉ là xuân lạnh chết
Trong buồn đau phẫn uất của công nông!

Xuân nay chỉ một mùa tang đẫm máu
Lòng người đang thét nỗi bi ai
Đứng phắt dậy ? Hỡi muôn hồn phấn đấu
Phá bất bình, mưu sống cho ngày mai…

Rồi xuân ấy, cả nhân quần vui vẻ
Nắm tay nhau, tuy khác tiếng, màu da
Giẩm chân lên những núi sông chia rẽ
Và ôm nhau thân ái cùng vang ca.
(Xuân 1938)

XUÂN NHÂN LỌAI

Mấy bữa trời chư ngớt gió sương
Cành xoan chưa phủ lục bên đường
Song lòng ta đã nghe đâu đó
Có một mùa xuân phảng phất hương

Không phải mùa xuân mấy thuở sang
Lá xanh không mát dạ khô vàng
Hoa thơm không át mùi xương máu
Nắng chỉ lây buồn trên áo tang
Đây một mùa xuân tới tới gần
Đây mùa bất tuyệt của muôn xuân
Hương tình nhân loại bay man mác
Gió bốn phương truyền vang ý Dân

Ôi hài âm mạch của nhân gian!
Mỗi giọng thân yêu một tiếng đàn
Coa vút từng không, băng vượt núi
Trường Sơn, Hy-mã-lạp, U-ran

Lâu rồi, khao khát lắm, xuân ơi
Nhân loại vươn lên ánh mặt trời
Nhân loại trườn lên trên biển máu
Đang nghe xuân tới mở môi cười.
                    (Xuân 1946)

 


Thơ Tố Hữu

RA TRẬN

2013-10-08 17:21
Giới thiệu: Hai tập Ra trận (1962-1971), Máu và Hoa (1972-1977) là chặng đường thơ Tố Hữu trong những năm kháng chiến chống Mỹ quyết liệt và hào hùng của cả dân tộc cho tới ngày toàn thắng. Thơ Tố Hữu lúc này là khúc ca ra trận, là mệnh lệnh tiến công và lời kêu gọi, cổ vũ hào hùng của cả dân...

—————


Thơ Tố Hữu

GIÓ LỘNG

2013-10-08 17:25
  Giới thiệu: Tập thơ Gió lộng (1955- 1961) khai thác những nguồn cảm hứng lớn, cũng là những tình cảm bao trùm trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam đương thời: niềm vui và niềm tự hào, tin tưởng ở công cuộc xây dựng cuộc sống mới XHCN trên miền Bắc, tình cảm với miền...

—————


Thơ Tố Hữu

MÁU VÀ HOA

2013-10-08 17:27
  Giới thiệu: Hai tập Ra trận (1962-1971), Máu và Hoa (1972-1977) là chặng đường thơ Tố Hữu trong những năm kháng chiến chống Mỹ quyết liệt và hào hùng của cả dân tộc cho tới ngày toàn thắng. Thơ Tố Hữu lúc này là khúc ca ra trận, là mệnh lệnh tiến công và lời kêu gọi,...

—————